
Diễn giải Kinh thánh Matthêu 17:1-9 bởi Thánh Theophylact của Ochrid (1050-1108).
Trích và dịch từ sách Explanation of the Holy Gospel According to St. Matthew của Thánh Theophylact của Ochrid.
17:1. Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo Người.1
Điều này không mâu thuẫn với lời Thánh Luca thuật lại: “Khoảng tám ngày sau...”. Bởi vì Thánh Luca tính cả ngày bắt đầu và ngày kết thúc, tức ngày họ lên núi. Còn Thánh Matthêu chỉ tính những ngày ở giữa. Người dẫn theo Phêrô vì ông yêu mến Người một cách đặc biệt; đem Gioan vì ông là người được Chúa yêu mến; và đem Giacôbê vì lòng ông đầy nhiệt thành, như được bộc lộ qua lời hứa sẽ uống chén cùng Thầy và qua việc Hêrôđê đã dùng gươm giết ông để làm đẹp lòng người Do Thái.
17:1-2. Rồi Người đưa các ông lên một ngọn núi cao, chỉ riêng các ông thôi. Và Người biến hình trước mặt các ông; dung nhan Người chói sáng như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
Người đưa các ông lên núi cao, để dạy rằng nếu đời sống tâm linh không được phát triển, thì con người không xứng đáng nhận được những thị kiến như vậy. Người chỉ dẫn các ông riêng ra, vì Đức Kitô thường thực hiện những phép mầu mầu nhiệm nhất trong nơi thinh lặng, để không bị đám đông nhìn nhận Người như Thiên Chúa và nghĩ rằng Người chỉ đội lốt người phàm về mặt hình thức. Khi anh em nghe về sự biến hình, đừng nghĩ rằng Người đã thay đổi thân thể của Mình vào lúc đó, mà đúng hơn là thân thể của Người vẫn như cũ, với hình dạng nguyên vẹn. Chỉ có dung nhan và y phục của Người được đề cập ở đây. Người trở nên bừng sáng hơn vì thần tính của Người hé lộ một phần nhỏ sự rạng ngời của nó, nhưng vừa đủ để các môn đệ có thể chịu đựng được và nhìn thấy. Vì thế, sự hiển dung được gọi là Vương Quốc Thiên Chúa theo một nghĩa cao hơn, vì nó mặc khải quyền năng khôn tả và chứng thực rằng Người thật là Con Thiên Chúa, và nó cũng phản ánh sự uy nghi của lần tái lâm thứ hai của Người thông qua sự rạng rỡ khôn tả trên dung nhan Chúa Giêsu.
17:3. Và kìa, ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.
Họ nói gì? Theo Thánh Luca, họ nói về “sự ra đi” của Người, mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem, tức là Cây Thập giá. Vì sao ông Môsê và Êlia lại xuất hiện? Để cho thấy rằng Đức Kitô là Chúa của cả Lề luật và các Tiên tri, và của cả người sống và người chết. Vì ông Êlia là tiên tri và vẫn còn sống, còn ông Môsê là một nhà lập pháp và đã qua đời. Sự hiện diện của họ cũng cho thấy rằng Đức Kitô không chống lại Lề luật hay hành động chống lại Thiên Chúa. Nếu Người làm vậy, Môsê đã không nói chuyện với Người, và Êlia — vị Tiên tri nhiệt thành — đã không dung thứ cho Người. Hơn nữa, sự hiện diện của họ làm cậm lặng những kẻ nói rằng Người là Êlia hay một trong các nhà tiên tri. Làm thế nào các môn đệ nhận ra đó là ông Môsê và Êlia? Không phải từ vẻ bề ngoài của họ, vì tại khoảng khắc đó việc xuất hiện dưới hình dáng con người là không phù hợp. Có lẽ họ nhận ra thông chính cuộc trò chuyện. Có thể Môsê đã nói: “Chính Người là Đấng mà tôi đã tiên báo qua lễ Vượt Qua khi sát tế con chiên.” Và Êlia có thể nói: “Chính Người là Đấng tôi đã tiên báo qua việc làm cho con trai bà góa phụ sống lại.” Việc Đức Kitô cho các môn đệ thấy ông Môsê và Êlia cũng là một bài học. Qua Môsê, Chúa dạy họ phải khiêm nhường và dẫn lối cho người khác; còn qua Êlia, Người dạy họ phải nhiệt thành, kiên định khi cần thiết, và sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy vì chân lý.
17:4. Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Thầy muốn, con xin dựng tại đây ba lều: một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia.”
Phêrô, vì lòng yêu mến nồng hậu, không muốn Đức Kitô phải bước vào cuộc Khổ nạn. Ông cho rằng thà ở lại trên núi còn hơn phải xuống để đối diện với cái chết. Nếu có ai đến đây, thì sẽ có cả ông Môsê và Êlia trợ giúp. Môsê đã từng chiến thắng người Ai Cập, Êlia đã từng kêu lửa từ trời xuống; lẽ nào các ngài lại không thể trợ giúp để chống lại mọi kẻ thù đến gần? Những lời này được nói ra trong sự sợ hãi, như Thánh Luca thuật lại, vì Phêrô không nhận thức được mình đang nói gì. Sự kinh ngạc của khoảnh khắc đó đã lấn áp tâm trí ông, khiến ông rối trí, chỉ mong Thầy ở lại trên núi, đừng xuống để chịu khổ hình vì chúng ta. Sợ rằng mình có thể bị xem là tự cao, ông nói thêm: “Nếu Thầy muốn.”
17:5. Khi ông còn đang nói, thì kìa, một đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người; hãy vâng nghe Người.”
Phêrô vừa xin dựng những lều do tay người phàm làm ra, nhưng Chúa Cha lại ban cho một chiếc lều không do tay người dựng nên: chính là đám mây. Qua đó, Người cho thấy rằng cũng như xưa kia Người đã hiện ra với dân trong đám mây như Thiên Chúa, thì nay Con của Người cũng được tỏ hiện như thế. Đám mây này rực sáng, chứ không tối tăm như thời Môsê, vì Chúa Cha không muốn gieo nỗi sợ hãi, nhưng muốn giáo huấn. Tiếng phán ra từ đám mây để cho biết rằng đó là lời từ Thiên Chúa. Cụm từ “Ta hài lòng về Người” nghĩa là “Ta yêu mến và chấp nhận Người.” Điều này dạy rằng, cho dù Người muốn tự nguyện tiến tới thập giá, anh em cũng đừng chống lại Người.
17:6-8. Khi các môn đệ nghe tiếng ấy, họ sấp mặt xuống đất và hết sức sợ hãi. Nhưng Đức Giêsu đến gần, chạm vào các ông và nói: “Trỗi dậy đi, đừng sợ!” Khi ngước mắt lên, họ không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Chúa Giêsu.
Các môn đệ, không thể chịu nổi ánh rực sáng của đám mây và tiếng phán, liền sấp mặt xuống đất. Mắt họ nặng trĩu, không phải vì buồn ngủ, nhưng vì quang cảnh quá sức chịu đựng. Để cho sự kinh ngạc không kéo dài quá lâu và khiến họ quên đi điều đã thấy, Chúa Giêsu đã nâng họ dậy. và khích lệ họ; chỉ còn lại một mình Người, để họ không nghĩ rằng tiếng phán ấy là về ông Môsê hay Êlia, nhưng là chính Người mới là Đấng duy nhất cần phải lắng nghe.
17:9. Khi các ông từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho họ rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con của Loài Người từ cõi chết trỗi dậy.”
Vì khiêm nhường, Người đã dặn họ không được kể cho ai, đồng thời cũng để tránh cho người khác vấp phạm khi sau này thấy Người chịu đóng đinh. Bởi nếu không, họ có thể nghĩ rằng Người chỉ là kẻ lừa dối, giả vờ làm những việc thần linh. Hãy hiểu rằng ‘sau sáu ngày’ cũng có ý chỉ sau thế giới này, vốn được dựng nên trong sáu ngày sáng tạo. Thị kiến Thiên Chúa chỉ đến khi ta đã vượt qua thế gian. Nếu bạn không vượt qua những điều trần tục và thăng tiến lên một trạng thái cao hơn, thì sẽ không thể thấy ánh sáng rạng ngời nơi dung nhan Đức Giêsu — chính thần tính của Người — cũng như không thể nhận ra y phục Người, tượng trưng cho xác phàm của Người. Chỉ khi đó anh em mới thấy ông Môse và Êlia đang đàm đạo với Người, vì Lề Luật và các tiên tri đều đồng thuận với Người. Nếu anh em tìm thấy một người diễn giải ý nghĩa của Kinh Thánh một cách rõ ràng và sáng suốt, hãy biết rằng họ đang nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Giêsu một cách rõ ràng. Nếu họ còn làm sáng tỏ và soi sáng lời Kinh Thánh, họ đang nhìn thấy cả y phục của Người, vì lời lẽ chính là y phục của ý nghĩa. Nếu anh em nói như Phêrô, "Chúng con ở đây thật là hay!" hãy nhớ rằng luôn cần phải tiến lên và không được dừng lại ở một mức độ đạo đức hay chiêm niệm, nhưng phải luôn tiến bước, từ bậc này sang bậc khác, trong sự trưởng thành và am hiểu.
Footnotes
-
Bản Codex 32 thêm rằng: ‘Tại sao Đức Kitô không đem tất cả mười hai môn đệ lên núi, mà chỉ dẫn theo Phêrô, Gioan và Giacôbê? Bởi Giuđa, với đôi mắt phản bội, không xứng đáng được chiêm ngắm vinh quang của Chúa. Nhưng có người sẽ hỏi: nếu vậy, tại sao Người không để riêng Giuđa lại dưới chân núi, rồi đưa mười một môn đệ còn lại cùng lên? Chúng ta không khôn ngoan hay sáng suốt hơn Đức Kitô. Nếu Giuđa bị bỏ lại một mình nơi chân núi, còn mười một người khác cùng lên, hẳn có kẻ sẽ nói rằng chính vì lý do ấy mà Giuđa sinh lòng phản bội và nộp Thầy. Vì thế, để ngăn chặn bất cứ lời nói nào như vậy, và để không cho Giuđa một cái cớ, Người đã để lại Giuđa cùng tám môn đệ khác dưới chân núi, còn Người đem theo ba môn đồ, để ba người nhờ thị kiến mà được xác tín và tôn vinh Người, còn chín người kia nhờ đức tin do nghe mà được chúc phúc, đúng như lời Chúa phán: “Phúc thay cho ai không thấy mà tin.” Hơn nữa, Người chỉ đem theo ba môn đệ — Phêrô, Giacôbê và Gioan — để ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: “Mọi lời sẽ được xác lập nhờ hai hoặc ba nhân chứng.” Ba nhân chứng là ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, cùng với hai vị nữa là ông Môsê và Êlia — những trụ cột của Lề Luật — và như thế, lời đã được xác lập. Điều này cũng không hề mâu thuẫn với những gì được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca, và còn có thể tiếp tục triển khai thêm nữa.” ↩